Hầu hết các báo cáo liên quan đến ba loài sâu bướm gây hại quan trọng nhất, đó là:Chilo suppressalis,Scirpophaga incertulas, VàCnaphalocrocis medinalis(tất cả đều thuộc họ Crambidae), là mục tiêu củaBtlúa, và hai loài sâu hại thuộc bộ Hemiptera quan trọng nhất, đó là,Sogatella furciferaVàNilaparvata lugens(cả hai đều thuộc họ Delphacidae).
Theo các tài liệu nghiên cứu, các loài thiên địch chính của sâu đục thân lúa thuộc bộ Lepidoptera nằm trong mười họ của bộ Araneae, và còn có các loài thiên địch khác thuộc bộ Coleoptera, Hemiptera và Neuroptera. Các loài ký sinh của sâu đục thân lúa thuộc bộ Lepidoptera chủ yếu thuộc sáu họ của bộ Hymenoptera, cùng với một vài loài thuộc hai họ của bộ Diptera (tức là Tachinidae và Sarcophagidae). Ngoài ba loài sâu đục thân gây hại chính, bộ Lepidoptera còn bao gồm các loài khác.Naranga aenescens(Họ Noctuidae),Parnara guttata(Hesperiidae),Bệnh nấm da đầu(Nymphalidae), vàPseudaletia separata(Họ Noctuidae) cũng được ghi nhận là loài gây hại cho cây lúa. Tuy nhiên, vì chúng không gây thiệt hại đáng kể cho cây lúa nên chúng hiếm khi được nghiên cứu, và có rất ít thông tin về các thiên địch của chúng.
Các thiên địch của hai loài côn trùng gây hại chính thuộc bộ Hemiptera,S. furciferaVàN. lugensĐã được nghiên cứu rộng rãi. Hầu hết các loài săn mồi được báo cáo là tấn công các loài ăn thực vật thuộc bộ Hemiptera đều là những loài tấn công các loài ăn thực vật thuộc bộ Lepidoptera, bởi vì chúng chủ yếu là loài ăn tạp. Các loài ký sinh của sâu hại thuộc bộ Hemiptera thuộc họ Delphacidae chủ yếu đến từ các họ Hymenoptera như Trichogrammatidae, Mymaridae và Dryinidae. Tương tự, các loài ký sinh của Hymenoptera cũng được biết đến với loài rệp cây.Nezara viridula(Họ Pentatomidae). Bọ trĩ.Stenchaetothrips biformis(Thysanoptera: Thripidae) cũng là một loài gây hại lúa phổ biến ở miền Nam Trung Quốc, và các loài thiên địch của nó chủ yếu thuộc bộ Coleoptera và Hemiptera, trong khi chưa có loài ký sinh nào được ghi nhận. Các loài thuộc bộ Orthoptera như...Oxya chinensis(Họ Acrididae) cũng thường được tìm thấy trong ruộng lúa, và các loài săn mồi của chúng chủ yếu bao gồm các loài thuộc bộ Araneae, Coleoptera và Mantodea.Oulema oryzae(Chrysomelidae), một loài bọ cánh cứng gây hại quan trọng ở Trung Quốc, bị tấn công bởi các loài bọ cánh cứng ăn thịt và các loài ong ký sinh. Kẻ thù tự nhiên chính của các loài ruồi gây hại là các loài ong ký sinh.
Để đánh giá mức độ tiếp xúc của động vật chân đốt với protein Cry trongBtTrên các cánh đồng lúa, một thí nghiệm thực địa lặp lại đã được tiến hành gần Xiaogan (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc) trong các năm 2011 và 2012.
Nồng độ Cry2A được phát hiện trong các mô lúa thu thập năm 2011 và 2012 tương tự nhau. Lá lúa chứa nồng độ Cry2A cao nhất (từ 54 đến 115 μg/g trọng lượng khô), tiếp theo là phấn hoa lúa (từ 33 đến 46 μg/g trọng lượng khô). Thân cây chứa nồng độ thấp nhất (từ 22 đến 32 μg/g trọng lượng khô).
Các kỹ thuật lấy mẫu khác nhau (bao gồm lấy mẫu bằng lực hút, lấy mẫu bằng tấm đập và tìm kiếm bằng mắt thường) đã được sử dụng để thu thập 29 loài động vật chân đốt sống trên thực vật thường gặp nhất trong nghiên cứu này.Btvà các thửa ruộng lúa đối chứng trong và sau giai đoạn ra hoa năm 2011 và trước, trong và sau giai đoạn ra hoa năm 2012. Nồng độ Cry2A cao nhất được đo trong các loài chân đốt thu thập được tại bất kỳ thời điểm lấy mẫu nào đều được chỉ ra.
Tổng cộng 13 loài động vật ăn cỏ không phải mục tiêu thuộc 11 họ, bao gồm các bộ Hemiptera, Orthoptera, Diptera và Thysanoptera, đã được thu thập và phân tích. Trong bộ Hemiptera, các cá thể trưởng thành của...S. furciferavà ấu trùng và con trưởng thành củaN. lugensChứa một lượng rất nhỏ Cry2A (<0,06 μg/g trọng lượng khô) trong khi protein này không được phát hiện ở các loài khác. Ngược lại, một lượng lớn Cry2A (từ 0,15 đến 50,7 μg/g trọng lượng khô) được phát hiện ở tất cả các mẫu trừ một mẫu thuộc bộ Diptera, Thysanoptera và Orthoptera. Bọ trĩS. biformisChứa nồng độ Cry2A cao nhất trong tất cả các loài động vật chân đốt được thu thập, gần bằng nồng độ trong mô lúa. Trong giai đoạn nở hoa,S. biformisChứa Cry2A ở nồng độ 51 μg/g DW, cao hơn nồng độ trong các mẫu thu thập trước khi ra hoa (35 μg/g DW). Tương tự, mức độ protein trongAgromyzaMức độ sp. (Diptera: Agromyzidae) cao hơn gấp >2 lần trong các mẫu thu thập trong thời kỳ lúa nở hoa so với trước hoặc sau khi nở hoa. Ngược lại, mức độ ởEuconocephalus thunbergii(Orthoptera: Tettigoniidae) có tỷ lệ cao hơn gần 2,5 lần ở các mẫu thu thập sau khi nở hoa so với trong thời gian nở hoa.
Thời gian đăng bài: 06/04/2021



