Sự xâm nhập của Anopheles stephensi ở Ethiopia có thể dẫn đến gia tăng tỷ lệ mắc sốt rét trong khu vực. Do đó, việc hiểu rõ đặc điểm kháng thuốc diệt côn trùng và cấu trúc quần thể của Anopheles stephensi mới được phát hiện ở Fike, Ethiopia là rất quan trọng để định hướng cho các biện pháp kiểm soát véc tơ nhằm ngăn chặn sự lây lan của loài sốt rét xâm lấn này trong nước. Sau khi giám sát côn trùng học Anopheles stephensi ở Fike, vùng Somalia, Ethiopia, chúng tôi đã xác nhận sự hiện diện của Anopheles stephensi ở Fike ở cấp độ hình thái và phân tử. Đặc điểm môi trường sống của ấu trùng và thử nghiệm tính nhạy cảm với thuốc diệt côn trùng cho thấy A. fixini thường được tìm thấy trong các vật chứa nhân tạo và kháng với hầu hết các loại thuốc diệt côn trùng trưởng thành đã thử nghiệm (organophosphate, carbamate,pyrethroid) ngoại trừ pirimiphos-methyl và PBO-pyrethroid. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng chưa trưởng thành dễ bị nhiễm temephos. Phân tích bộ gen so sánh tiếp theo đã được tiến hành với loài Anopheles stephensi trước đó. Phân tích quần thể Anopheles stephensi ở Ethiopia sử dụng 1.704 SNP song alen đã cho thấy mối liên hệ di truyền giữa quần thể A. fixais và Anopheles stephensi ở miền trung và miền đông Ethiopia, đặc biệt là A. jiggigas. Những phát hiện của chúng tôi về đặc điểm kháng thuốc trừ sâu cũng như các quần thể nguồn có thể có của Anopheles fixini có thể giúp phát triển các chiến lược kiểm soát loài véc tơ sốt rét này ở vùng Fike và Jigjiga để hạn chế sự lây lan của nó từ hai vùng này sang các vùng khác của đất nước và trên khắp lục địa châu Phi.
Hiểu biết về các địa điểm sinh sản của muỗi và các điều kiện môi trường là rất quan trọng để phát triển các chiến lược kiểm soát muỗi như sử dụng thuốc diệt ấu trùng (temephos) và kiểm soát môi trường (loại bỏ môi trường sống của ấu trùng). Ngoài ra, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị quản lý ấu trùng là một trong những chiến lược kiểm soát trực tiếp Anopheles stephensi ở các khu vực đô thị và ven đô tại các khu vực bị nhiễm. 15 Nếu không thể loại bỏ hoặc giảm nguồn ấu trùng (ví dụ như hồ chứa nước sinh hoạt hoặc đô thị), có thể cân nhắc sử dụng thuốc diệt ấu trùng. Tuy nhiên, phương pháp kiểm soát véc tơ này tốn kém khi xử lý môi trường sống của ấu trùng lớn. 19 Do đó, nhắm mục tiêu vào các môi trường sống cụ thể nơi có nhiều muỗi trưởng thành là một cách tiếp cận hiệu quả về mặt chi phí. 19 Do đó, việc xác định mức độ nhạy cảm của Anopheles stephensi ở Thành phố Fik với thuốc diệt ấu trùng như temephos có thể giúp đưa ra quyết định khi phát triển các phương pháp kiểm soát các véc tơ sốt rét xâm lấn ở Thành phố Fik.
Ngoài ra, phân tích bộ gen có thể giúp phát triển các chiến lược kiểm soát bổ sung cho loài Anopheles stephensi mới được phát hiện. Cụ thể, việc đánh giá tính đa dạng di truyền và cấu trúc quần thể của Anopheles stephensi, đồng thời so sánh chúng với các quần thể hiện có trong khu vực có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử quần thể, mô hình phân tán và các quần thể nguồn tiềm năng của chúng.
Do đó, một năm sau khi phát hiện Anopheles stephensi đầu tiên tại thị trấn Fike, vùng Somalia, Ethiopia, chúng tôi đã tiến hành một cuộc khảo sát côn trùng học để mô tả đặc điểm môi trường sống của ấu trùng Anopheles stephensi và xác định độ nhạy cảm của chúng với thuốc trừ sâu, bao gồm cả thuốc diệt ấu trùng temephos. Sau khi định danh hình thái, chúng tôi đã tiến hành xác minh sinh học phân tử và sử dụng các phương pháp hệ gen để phân tích lịch sử quần thể và cấu trúc quần thể của Anopheles stephensi tại thị trấn Fike. Chúng tôi đã so sánh cấu trúc quần thể này với các quần thể Anopheles stephensi đã được phát hiện trước đó ở miền đông Ethiopia để xác định mức độ xâm chiếm của chúng tại thị trấn Fike. Chúng tôi tiếp tục đánh giá mối quan hệ di truyền của chúng với các quần thể này để xác định các quần thể nguồn tiềm năng của chúng trong khu vực.
Chất hiệp đồng piperonyl butoxide (PBO) đã được thử nghiệm với hai loại pyrethroid (deltamethrin và permethrin) trên muỗi Anopheles stephensi. Thử nghiệm hiệp đồng được thực hiện bằng cách cho muỗi tiếp xúc trước với giấy PBO 4% trong 60 phút. Sau đó, muỗi được chuyển sang các ống nghiệm chứa pyrethroid mục tiêu trong 60 phút và mức độ nhạy cảm của chúng được xác định theo tiêu chuẩn tử vong của WHO được mô tả ở trên24.
Để có được thông tin chi tiết hơn về các quần thể nguồn tiềm năng của quần thể Fiq Anopheles stephensi, chúng tôi đã thực hiện phân tích mạng bằng cách sử dụng bộ dữ liệu SNP song alen kết hợp từ các trình tự Fiq (n = 20) và Genbank đã trích xuất các trình tự Anopheles stephensi từ 10 địa điểm khác nhau ở miền đông Ethiopia (n = 183, Samake và cộng sự. 29). Chúng tôi đã sử dụng EDENetworks41, cho phép phân tích mạng dựa trên ma trận khoảng cách di truyền mà không cần giả định tiên nghiệm. Mạng bao gồm các nút đại diện cho các quần thể được kết nối bởi các cạnh/liên kết được trọng số hóa theo khoảng cách di truyền Reynolds (D)42 dựa trên Fst, cung cấp cường độ liên kết giữa các cặp quần thể41. Cạnh/liên kết càng dày thì mối quan hệ di truyền giữa hai quần thể càng mạnh. Hơn nữa, kích thước nút tỷ lệ thuận với các liên kết cạnh có trọng số tích lũy của mỗi quần thể. Do đó, nút càng lớn thì điểm trung tâm hoặc điểm hội tụ của kết nối càng cao. Ý nghĩa thống kê của các nút được đánh giá bằng cách sử dụng 1000 lần lặp lại bootstrap. Các nút xuất hiện trong danh sách 5 và 1 về giá trị trung tâm nằm giữa (BC) (số đường dẫn di truyền ngắn nhất qua nút) có thể được coi là có ý nghĩa thống kê43.
Chúng tôi báo cáo sự hiện diện của An. stephensi với số lượng lớn trong mùa mưa (tháng 5–tháng 6 năm 2022) tại Fike, Vùng Somali, Ethiopia. Trong số hơn 3.500 ấu trùng Anopheles được thu thập, tất cả đều được nuôi và được xác định về mặt hình thái là Anopheles stephensi. Việc xác định phân tử một tập hợp con ấu trùng và phân tích phân tử sâu hơn cũng xác nhận rằng mẫu nghiên cứu thuộc về Anopheles stephensi. Tất cả các môi trường sống của ấu trùng An. stephensi được xác định đều là các địa điểm sinh sản nhân tạo như ao lót nhựa, bể chứa nước kín và mở, và thùng, điều này phù hợp với các môi trường sống của ấu trùng An. stephensi khác được báo cáo ở miền đông Ethiopia45. Thực tế là ấu trùng của các loài An. stephensi khác được thu thập cho thấy An. stephensi có thể sống sót qua mùa khô ở Fike15, nhìn chung khác với An. arabiensis, vectơ sốt rét chính ở Ethiopia46,47. Tuy nhiên, ở Kenya, ấu trùng Anopheles stephensi… được tìm thấy trong cả môi trường chứa nhân tạo và lòng suối48, làm nổi bật sự đa dạng môi trường sống tiềm tàng của ấu trùng Anopheles stephensi xâm lấn này, điều này có ý nghĩa đối với hoạt động giám sát côn trùng học trong tương lai đối với loài muỗi truyền bệnh sốt rét xâm lấn này ở Ethiopia và Châu Phi.
Nghiên cứu đã xác định được tỷ lệ lưu hành cao của muỗi Anopheles xâm lấn truyền bệnh sốt rét ở Fickii, môi trường sống của ấu trùng, tình trạng kháng thuốc diệt côn trùng của muỗi trưởng thành và ấu trùng, sự đa dạng di truyền, cấu trúc quần thể và các quần thể nguồn tiềm năng. Kết quả của chúng tôi cho thấy quần thể Anopheles fickii dễ bị nhiễm pirimiphos-methyl, PBO-pyrethrin và temetafos. B1 Do đó, các loại thuốc diệt côn trùng này có thể được sử dụng hiệu quả trong các chiến lược kiểm soát vectơ sốt rét xâm lấn này ở khu vực Fickii. Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng quần thể Anopheles fik có mối quan hệ di truyền với hai trung tâm Anopheles chính ở miền đông Ethiopia, cụ thể là Jig Jiga và Dire Dawa, và có quan hệ họ hàng gần hơn với Jig Jiga. Do đó, việc tăng cường kiểm soát vectơ ở những khu vực này có thể giúp ngăn chặn sự xâm nhập tiếp theo của muỗi Anopheles vào Fike và các khu vực khác. Tóm lại, nghiên cứu này cung cấp một phương pháp tiếp cận toàn diện để nghiên cứu các đợt bùng phát Anopheles gần đây. Sâu đục thân Stephenson đang được mở rộng sang các khu vực địa lý mới để xác định mức độ lây lan, đánh giá hiệu quả của thuốc trừ sâu và xác định quần thể nguồn tiềm ẩn để ngăn chặn sự lây lan thêm.
Thời gian đăng: 19-05-2025