Uniconazole, một hợp chất triazole dựa trênchất ức chế sinh trưởng thực vậtNó có tác dụng sinh học chính là kiểm soát sự phát triển ngọn cây, làm cây lùn đi, thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển bình thường của rễ, cải thiện hiệu quả quang hợp và kiểm soát hô hấp. Đồng thời, nó cũng có tác dụng bảo vệ màng tế bào và màng bào quan, tăng cường khả năng chống chịu stress của cây trồng.
Ứng dụng
a. Nuôi trồng cây con khỏe mạnh để tăng khả năng chống chịu chọn lọc.
| Cơm | Ngâm lúa với dung dịch thuốc có nồng độ 50 ~ 100mg/L trong 24~36 giờ có thể giúp lá mạ xanh đậm, rễ phát triển, tăng đẻ nhánh, tăng bông và hạt, đồng thời cải thiện khả năng chống hạn và chống rét. (Lưu ý: Các giống lúa khác nhau có độ nhạy cảm khác nhau với enobuzole, lúa nếp > lúa Nhật > lúa lai, độ nhạy càng cao thì nồng độ càng thấp.) |
| Lúa mì | Ngâm hạt lúa mì trong dung dịch có nồng độ 10-60mg/L trong 24 giờ hoặc xử lý hạt khô với nồng độ 10-20 mg/kg (hạt) có thể ức chế sự phát triển của phần thân trên mặt đất, thúc đẩy sự phát triển của rễ và tăng năng suất bông, trọng lượng 1000 hạt và số bông. Ở một mức độ nhất định, có thể giảm thiểu tác động tiêu cực của việc tăng mật độ và giảm lượng phân đạm bón lên các thành phần năng suất. Đồng thời, dưới tác động của nồng độ thấp (40 mg/L), hoạt động của enzyme tăng chậm, tính toàn vẹn của màng sinh chất bị ảnh hưởng và tốc độ tiết chất điện giải tăng tương đối. Do đó, nồng độ thấp có lợi hơn cho việc trồng cây con khỏe mạnh và cải thiện sức đề kháng của lúa mì. |
| Lúa mạch | Hạt lúa mạch được ngâm trong dung dịch enobuzole 40 mg/L trong 20 giờ có thể giúp cây con ngắn và chắc, lá xanh đậm, chất lượng cây con được cải thiện và khả năng chống chịu stress được tăng cường. |
| Hiếp dâm | Ở giai đoạn 2-3 lá của cây cải dầu non, phun dung dịch với nồng độ 50-100 mg/L có thể làm giảm chiều cao cây con, tăng số lượng thân non, lá nhỏ và dày, cuống lá ngắn và dày, tăng số lượng lá xanh trên mỗi cây, hàm lượng diệp lục và tỷ lệ rễ/thân, đồng thời thúc đẩy sự sinh trưởng của cây con. Sau khi cấy ra đồng, chiều cao cành hữu hiệu giảm, số lượng cành hữu hiệu và số góc trên mỗi cây tăng, và năng suất tăng. |
| Cà chua | Ngâm hạt cà chua trong dung dịch endosinazole nồng độ 20 mg/L trong 5 giờ có thể kiểm soát hiệu quả sự phát triển của cây con, giúp thân cây chắc khỏe, có màu xanh đậm, hình dáng cây hướng đến cây con khỏe mạnh, có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ đường kính thân/chiều cao cây con và tăng sức sống cho cây con. |
| Quả dưa chuột | Ngâm hạt dưa chuột với dung dịch enlobuzole nồng độ 5-20 mg/L trong 6-12 giờ có thể kiểm soát hiệu quả sự phát triển của cây con dưa chuột, giúp lá xanh đậm, thân dày, tán rộng và thúc đẩy tăng số lượng quả trên mỗi cây, từ đó cải thiện đáng kể năng suất dưa chuột. |
| Ớt ngọt | Ở giai đoạn 2 lá và 1 búp, cây con được phun dung dịch thuốc với nồng độ 20 đến 60mg/L, có tác dụng ức chế đáng kể chiều cao cây, tăng đường kính thân, giảm diện tích lá, tăng tỷ lệ rễ/thân, tăng hoạt động của SOD và POD, và cải thiện đáng kể chất lượng cây con ớt ngọt. |
| Dưa hấu | Ngâm hạt dưa hấu với dung dịch endosinazole 25 mg/L trong 2 giờ có thể kiểm soát hiệu quả sự phát triển của cây con, tăng độ dày thân và tích lũy chất khô, đồng thời thúc đẩy sự sinh trưởng của cây dưa hấu con. Cải thiện chất lượng cây con. |
b. Kiểm soát sự sinh trưởng thực vật để tăng năng suất
| Cơm | Ở giai đoạn cuối của quá trình đa dạng sinh học (7 ngày trước khi đâm chồi), lúa được phun enlobuzole với nồng độ 100~150mg/L để thúc đẩy đẻ nhánh, làm lùn thân và tăng năng suất. |
| Lúa mì | Ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đốt thân, toàn bộ cây lúa mì được phun enlobuzole với nồng độ 50-60 mg/L, có tác dụng kiểm soát sự kéo dài lóng thân, tăng khả năng chống đổ ngã, tăng số bông hiệu quả, trọng lượng 1000 hạt và số hạt trên mỗi bông, từ đó thúc đẩy tăng năng suất. |
| Cao lương ngọt | Khi chiều cao cây cao lương ngọt đạt 120cm, bón toàn bộ cây với nồng độ 800mg/L enlobuzole, đường kính thân cây cao lương ngọt tăng lên đáng kể, chiều cao cây giảm đáng kể, khả năng chống đổ ngã tăng lên và năng suất ổn định. |
| Kê | Ở giai đoạn trổ bông, việc phun thuốc dạng lỏng 30mg/L lên toàn bộ cây có thể thúc đẩy sự chắc khỏe của thân cây, ngăn ngừa đổ ngã và tăng mật độ hạt; với lượng thích hợp, điều này có thể góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất. |
| Hiếp dâm | Ở giai đoạn đầu ra hoa đạt chiều cao 20cm, toàn bộ cây cải dầu có thể được phun dung dịch thuốc trừ sâu với nồng độ 90~125 mg/L, giúp lá xanh đậm hơn, lá dày hơn, cây lùn đi đáng kể, rễ cọc dày lên, thân dày hơn, cành hữu hiệu tăng lên, số quả hữu hiệu tăng lên và thúc đẩy tăng năng suất. |
| Đậu phộng | Vào giai đoạn cuối ra hoa của cây lạc, phun thuốc trừ sâu dạng lỏng với nồng độ 60~120 mg/L lên bề mặt lá có thể kiểm soát hiệu quả sự sinh trưởng của cây lạc và tăng sản lượng hoa. |
| Đậu nành | Ở giai đoạn đầu phân nhánh của cây đậu nành, phun thuốc dạng lỏng với nồng độ 25~60 mg/L lên bề mặt lá có thể kiểm soát sự sinh trưởng của cây, thúc đẩy tăng đường kính thân, hình thành quả và tăng năng suất. |
| Đậu xanh | Phun thuốc dạng lỏng 30 mg/L lên bề mặt lá đậu xanh ở giai đoạn ra mực có thể kiểm soát sự sinh trưởng của cây, thúc đẩy quá trình trao đổi chất sinh lý của lá, tăng trọng lượng 100 hạt, trọng lượng hạt trên mỗi cây và năng suất hạt. |
| Bông | Ở giai đoạn ra hoa sớm của cây bông, phun thuốc trừ sâu dạng lỏng với nồng độ 20-50 mg/L lên lá có thể kiểm soát hiệu quả chiều dài cây bông, giảm chiều cao cây bông, thúc đẩy tăng số lượng quả và trọng lượng quả bông, làm tăng đáng kể năng suất cây bông, và tăng năng suất lên đến 22%. |
| Quả dưa chuột | Ở giai đoạn ra hoa sớm của cây dưa chuột, toàn bộ cây được phun dung dịch thuốc 20mg/L, giúp giảm số lượng đốt trên mỗi cây, tăng tỷ lệ hình thành quả, giảm hiệu quả tỷ lệ quả đầu tiên bị biến dạng và tăng đáng kể năng suất trên mỗi cây. |
| Khoai lang, khoai tây | Bón thuốc dạng lỏng với nồng độ 30-50 mg/L cho khoai lang và khoai tây có thể kiểm soát sự sinh trưởng thực vật, thúc đẩy sự phát triển của củ khoai tây và tăng năng suất. |
| Khoai mỡ Trung Quốc | Ở giai đoạn ra hoa và kết nụ, phun dung dịch 40mg/L lên bề mặt lá khoai lang một lần có thể ức chế đáng kể sự kéo dài thân trên mặt đất hàng ngày, hiệu quả kéo dài khoảng 20 ngày, và có thể thúc đẩy tăng năng suất. Nếu nồng độ quá cao hoặc số lần phun quá nhiều, năng suất phần rễ của khoai lang sẽ bị ức chế trong khi sự kéo dài thân trên mặt đất cũng bị ức chế. |
| Củ cải | Khi phun dung dịch có nồng độ 600 mg/L lên ba lá củ cải thật, tỷ lệ carbon/nitơ trong lá củ cải giảm 80,2%, đồng thời tỷ lệ nảy chồi và tỷ lệ ra hoa của cây cũng giảm hiệu quả (giảm lần lượt 67,3% và 59,8%). Việc sử dụng củ cải trong sản xuất vụ xuân trái mùa có thể ức chế hiệu quả hiện tượng ra hoa, kéo dài thời gian sinh trưởng của củ và nâng cao giá trị kinh tế. |
c. Kiểm soát sự phát triển của cành và thúc đẩy sự phân hóa nụ hoa.
Trong giai đoạn sinh trưởng chồi hè của cây có múi, dung dịch enlobuzole 100~120 mg/L được phun lên toàn bộ cây, có tác dụng ức chế chiều dài chồi của cây có múi non và thúc đẩy đậu quả.
Khi đợt hoa đực đầu tiên của cây vải thiều nở rộ với số lượng ít, việc phun enlobuzole 60 mg/L có thể làm chậm quá trình ra hoa, kéo dài thời gian ra hoa, làm tăng đáng kể số lượng hoa đực, giúp tăng lượng quả ban đầu, tăng đáng kể năng suất, gây rụng hạt và tăng tỷ lệ cháy lá.
Sau khi tỉa cành lần hai, phun hỗn hợp 100 mg/L endosinazole kết hợp với 500 mg/L Yiyedan hai lần trong 14 ngày, có tác dụng ức chế sự phát triển của chồi non, giảm chiều dài bông và cành phụ, tăng độ dày và chắc của cây, tăng năng suất quả trên cành phụ và tăng khả năng chống chịu thiên tai của cây táo tàu.
d. Khuyến khích tô màu
Táo được phun dung dịch có nồng độ 50~200 mg/L vào ngày thứ 60 và 30 trước khi thu hoạch, cho thấy hiệu quả tạo màu rõ rệt, làm tăng hàm lượng đường hòa tan, giảm hàm lượng axit hữu cơ, đồng thời tăng hàm lượng axit ascorbic và protein. Phương pháp này có tác dụng tạo màu tốt và có thể cải thiện chất lượng táo.
Trong giai đoạn chín của lê Nanguo, phun dung dịch gồm 100mg/L endobuzole + 0,3% canxi clorua + 0,1% kali sulfat có thể làm tăng đáng kể hàm lượng anthocyanin, tỷ lệ quả đỏ, hàm lượng đường hòa tan trong vỏ quả và trọng lượng mỗi quả.
Vào ngày thứ 10 và 20 trước khi quả chín, người ta sử dụng endosinazole với nồng độ 50-100 mg/L để phun lên bông nho của hai giống nho “Jingya” và “Xiyanghong”, giúp thúc đẩy đáng kể sự gia tăng hàm lượng anthocyanin, hàm lượng đường hòa tan, hàm lượng axit hữu cơ, tỷ lệ đường-axit và hàm lượng vitamin C. Điều này có tác dụng thúc đẩy màu sắc của quả nho và cải thiện chất lượng quả.
e. Điều chỉnh loại cây trồng để cải thiện vẻ đẹp trang trí.
Phun endosinazole với nồng độ 40-50 mg/L 3-4 lần hoặc 350-450 mg/L một lần trong suốt thời kỳ sinh trưởng của cỏ lúa mạch, cỏ fescue cao, cỏ bluegrass và các loại cỏ khác có thể làm chậm tốc độ sinh trưởng của cỏ, giảm tần suất cắt cỏ và giảm chi phí cắt tỉa và quản lý. Đồng thời, nó có thể tăng khả năng chịu hạn của cây, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tưới tiêu tiết kiệm nước cho cỏ.
Trước khi trồng giống Shandandan, bầu hạt được ngâm trong dung dịch 20 mg/L trong 40 phút, và khi chồi cao 5-6 cm, thân và lá được phun cùng nồng độ dung dịch đó, xử lý 6 ngày một lần cho đến khi chồi chuyển sang màu đỏ hoàn toàn. Phương pháp này có thể làm giảm đáng kể chiều cao cây, tăng đường kính thân, rút ngắn chiều dài lá, tạo thêm màu xanh tím cho lá và làm đậm màu lá, nâng cao giá trị thẩm mỹ.
Khi cây tulip đạt chiều cao 5cm, người ta phun enlobuzole 175 mg/L 4 lần, cách nhau 7 ngày, có thể kiểm soát hiệu quả hiện tượng còi cọc của tulip trong và ngoài mùa vụ.
Trong suốt thời kỳ sinh trưởng của hoa hồng, dung dịch enlobuzole 20 mg/L được phun lên toàn bộ cây 5 lần, cách nhau 7 ngày, giúp cây còi cọc, sinh trưởng mạnh mẽ, lá sẫm màu và bóng mượt.
Trong giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây hoa huệ, phun dung dịch endosinazole 40 mg/L lên bề mặt lá có thể làm giảm chiều cao cây và kiểm soát hình thái cây. Đồng thời, nó cũng có thể làm tăng hàm lượng diệp lục, làm đậm màu lá và cải thiện vẻ đẹp cảnh quan.
Thời gian đăng bài: 08/08/2024



